Header Ads Widget

Responsive Advertisement

THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

 


 I. DẪN NHẬP:

Thập nhị nhân duyên là giáo lý nội quán của đức Phật khi Ngài Thành Đạo. Ngược dòng về lịch sử Phật, thì sau khi xuất gia và tham học với các đạo sĩ như A La La Ca Lan và Uất Đầu Lam Khuất, tu tập theo các học thuyết của họ, thái tử vẫn không thỏa mãn, vì học thuyết của họ còn thấp kém, không đưa người tu tập đến giải thoát luân hồi sanh tử. Do đó, Ngài từ bỏ họ và vào Tuyết Sơn tu tập khổ hạnh 6 năm. Đến kiệt sức mà chân lý vẫn không tìm thấy, Ngài liền bỏ khổ hạnh và bước vào tu tập Thiền Quán suốt 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề. Đến cuối cùng, Ngài đạt được Đạo quả Giác Ngộ khi sao mai vừa mọc với giáo lý duyên khởi, sau này được Phật khai triển thành giáo lý 12 nhân duyên.

Như thế thập nhị nhân duyên là một giáo lý căn bản. Nó trình bày tướng trạng của sanh tử luân hồi với sự liên hệ mật thiết của định luật nhân quả. Nó cho ta thấu suốt khổ quả nguồn nhân và từ đó tiến lên tu tập đoạn trừ sanh tử luân hồi. Song song với Tứ đế, 12 nhân duyên làm cho giáo pháp đức Phật thêm phong phú về cách trình bày khổ và đoạn tận khổ. Những ai ra đời không gặp Phật, nhưng quán sát giáo lý này mà được Giác ngộ, người đó được gọi là Độc giác Phật hay Duyên giác Phật. Trong Tiểu Bộ Kinh, Phật dạy: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp, người đó thấy Ta”. Chỉ chừng đó thôi cũng đủ cho chúng ta thấy sự quan trọng của giáo lý duyên khởi mà biểu tượng là đạo lý 12 nhân duyên.

II. ĐỊNH NGHĨA:
Thập nhị nhân duyên hay còn gọi là 12 duyên khởi hay 12 hữu chi. Nhân duyên ở đây có nghĩa là nhân tức duyên chứ không phải nhân và duyên, nghĩa là chúng từ trực tiếp sanh ra quả. Như thế nói 12 nhân duyên tức là nói sự liên quan giữa nhân và quả, là sự tác động ra và tùy thuộc vào của 12 chi phần mà từ đó có sự kết nối của sanh tử luân hồi.

Trong Tương Ưng Kinh, Phật dạy: “Do vô minh có hành sinh, do hành có thức sinh, do thức có danh sắc sinh, do danh sắc có lục nhập sinh, do lục nhập có xúc sinh, do xúc có thọ sinh, do thọ có ái sinh, do ái có thủ, do thủ có hữu, do hữu có sanh, do sanh có lão tử, sầu, bi, ưu, khổ, não sinh. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn sinh. Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt… lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn diệt”.
Đó là định nghĩa của Phật về 12 nhân duyên. Sau đây là hành tướng của chúng.

III. HÀNH TƯỚNG 12 NHÂN DUYÊN:



  1. Vô minh: Theo Đại thừa thì chính nhất niệm vọng động chướng ngại, che lấp chân tánh vô minh. Theo Nam tạng thì chính sự không thấu suốt Tứ Đế, không có lý duyên khởi là vô minh.

  2. Hành: Là hành nghiệp, tức hành động có tác ý đưa đến nghiệp quả. Hành nghiệp có 3 thuộc: Thân, khẩu, ý.

  3. Thức: Là thức tái sanh, tùy đối cảnh mà có sự liễu biệt.

  4. Danh sắc: Danh là tinh thần gồm 4 uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là sắc uẩn, gồm 4 đại và các pháp do 4 đại sanh.

  5. Lục nhập: 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

  6. Xúc: 6 căn tiếp xúc với 6 trần Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

  7. Thọ: Sự cảm thọ do xúc. Có 3 là: lạc, khổ và xả thọ.

  8. Ái: Sự luyến ái, thèm khát, ham muốn 5 thứ dục lạc là tài, sắc, danh, thực, thùy.

  9. Thủ: Tìm cầu, chấp thủ. Có 4 loại:
    a. Dục thủ: Chấp thủ ái dục
    b. Kiến thủ: Chấp thủ tri kiến
    c. Giới cấm thủ: Chấp thủ giới cấm
    d. Ngã luận thủ: Chấp thủ Ngã và sở hữu của Ngã

  10. Hữu: Là sự có mặt của hành nghiệp hiện tại.

  11. Sanh: Sự tái sinh, có thân mạng đầy đủ 5 uẩn.

  12. Lão tử: Là biến hoại của một chúng sanh. Từ tráng kiện đến già bệnh, từ già bệnh đến chết tức là chấm dứt sự sống.

IV. GIẢI THÍCH 12 NHÂN DUYÊN:
Thập nhị nhân duyên được giải thích theo biểu đồ sau:

  • Nhân quá khứ: 01. Vô minh, 02. Hành

  • Quả hiện tại: 03. Thức, 04. Danh sắc, 05. Lục nhập, 06. Xúc, 07. Thọ

  • Nhân hiện tại: 08. Ái, 09. Thủ, 10. Hữu

  • Quả vị lai: 11. Sanh, 12. Lão tử

Theo biểu đồ giải thích thì Vô minh, Hành là nhân quá khứ; Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ là quả hiện tại; Ái, Thủ, Hữu là nhân hiện tại; Sanh, Lão tử là quả vị lai. Như thế 12 chi ấy thông cả ba đời với hai lớp nhân quả. Do vô minh, hành nghiệp đời trước mà có thức nhập vào thai mẹ, đó là lúc sanh mạng bắt đầu ở hiện tại. Rồi xương thịt tâm thức hình thành thì gọi là danh sắc, đầy đủ 6 căn gọi là lục nhập. Đến khi sanh ra thì có xúc, thọ tạo ra Ái, Thủ, Hữu là yêu thích, tham đắm, chấp chặt. Chính do Ái, Thủ, Hữu này làm nhân mà có Sanh, Lão tử ở vị lai. Cách giải thích này thuật ngữ gọi là Tam thế lưỡng trùng nhân quả.

V. QUÁN SÁT, TU TẬP 12 NHÂN DUYÊN:



Từ định lý duyên khởi đã được chứng đắc “Cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt”. Đức Phật đã quán chiếu và thấy được rằng già chết có mặt là do sanh có mặt và nếu vô minh không có mặt thì hành sẽ không có mặt cho đến lão tử sẽ không có mặt.

Đó là nghịch quán và thuận quán 12 nhân duyên để tìm ra gốc khổ và đoạn tận nó. Như vậy nghịch quán tức là quán ngược từ quả trở về nhân và thuận quán là quán xuôi theo dòng nhân quả.

Ngoài ra, từ định lý duyên khởi nói trên, 12 nhân duyên còn được quán sát theo 2 cách. Đó là lưu chuyển và hoàn diệt.

  • Lưu chuyển quán là quán theo “Cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh” nghĩa là do vô minh mà có Hành, do vô minh sinh và hành sinh mà do đó toàn bộ khổ uẩn sinh.

  • Hoàn diệt quán là quán sát theo “Cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt” nghĩa là do vô minh không có nên Hành không có, do vô minh diệt nên Hành diệt và do đó toàn bộ khổ uẩn diệt.

Như thế để tu tập 12 nhân duyên thì chúng ta phải không gây nhân hiện tại là Ái, Thủ, Hữu. Đó chính là vô minh của quá khứ. Một khi Ái, Thủ, Hữu hiện tại không còn thì dĩ nhiên chúng ta sẽ không còn tái sanh trong đời sau nữa như củi hết thì lửa cũng tắt vậy. Tam Tạng giáo điển thường xuyên nhắc ta đoạn tham ái và chấp thủ chính để đoạn trừ gốc khổ đó.


VI. KẾT LUẬN:
Đạo lý 12 nhân duyên cho chúng ta những lợi ích thiết thực như sau:

  1. Tu tập trí tuệ: Nguồn gốc khổ sanh tử chính là vô minh, tham ái nên muốn đoạn diệt nó, chúng ta phải học rộng nghe nhiều để tăng trưởng trí tuệ. Kinh Bát Đại nhân giác nói: “Ngu si sanh tử Bồ tát thường niệm quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hóa nhất thiết, tất dĩ đại lạc”.

  2. Đoạn tà kiến: Vô minh trong 12 nhân duyên không phải là nguyên nhân đầu tiên, 12 nhân duyên như một vòng tròn mắc xích với nhau, khoen này tức là khoen kia. Với 12 nhân duyên, Phật giáo không chấp nhận tà thuyết, tà kiến như “Thuyết nhất nhân” chủ trương Thượng đế đã tạo vậy, “Thuyết vô nhân” chủ trương tự nhiên sanh, “Thuyết định mạng” chủ trương mọi sự vật đều đã định sẵn, con người không thể thay đổi số phận đã định. Nguyễn Du đã từng nói:

“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa,
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.

  1. Quay về chính mình: 12 nhân duyên là một học thuyết nhân bản. Nó trả lại chọn người cho chính con người. Con người làm chủ vận mệnh của mình, đời sống tốt đẹp hay xấu xa là do chính con người, không có một thế lực siêu nhân nào dự vào. Trong bài Vịnh Phật Nguyễn Công Trứ đã tuyên bố:

“Trong nhật dụng sao bằng đạo khác
Cái luân hồi chẳng ở đâu xa
Nghiệp duyên cũng tại mình ra,
Trong vương tắc đủ thiên đường, địa ngục”.

  1. Đoạn tận sanh tử, dứt nẻo luân hồi: Sanh tử luân hồi là nỗi khổ đau nhất của chúng sanh. Đức Thế Tôn cũng vì khổ sanh tử mà xuất gia tìm đạo giải thoát. Mười hai nhân duyên được Phật phát kiến đã đưa chúng sanh ra khỏi nẻo luân hồi. Trong Tương Ưng Kinh Phật dạy: “Bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, thân người hiền trí được sanh khởi. Vô minh ấy, người hiền trí đoạn tận, tham ái ấy, người hiền trí ấy tận trừ. Vì cớ sao? Người hiền trí sống phạm hạnh vì chọn chánh đoạn trừ đau khổ. Do vậy, người hiền trí khi thân hoại mạng chung không đi đến một thân khác. Vị ấy đã thoát đau khổ”.

Đó chính là những lợi ích thiết thực nhất của mười hai nhân duyên.













Đăng nhận xét

0 Nhận xét