I. THÂN THẾ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ TRƯỚC XUẤT GIA.
1. THÂN THẾ
Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni tên là Sĩ-Đạt-Ta (Siddhatta) hiệu là Thích Ca (Sakya) chi nhánh của họ
Kiều-Tất-La một đại quý tộc ở Ấn Độ. Ngài là con vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và
Hoàng Hậu Ma- Gia (Màyà) vương quốc Thích Ca có kinh đô là thành Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) ở phía bắc thành Ba-La-Nại (Benares) Phạn Varanasi) .
2 địa điểm ngày nay Kapilavastu & Varanasi
Câu hỏi : Bạn hãy xác định vị trí trên bản đồ của thành Ba La Nại ngày nay ?
2. ĐẢN SANH :
Thái Tử Tất Đạt Đa Đản Sanh
Theo cổ tục của Ấn Độ, người phụ nữ trước khi sinh sẽ trở về nhà cha mẹ để sinh. Hoàng hậu Ma-Gia trên đường về quê mẹ, trong lúc đi dạo cảnh vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) thì hạ sanh Thái Tử dưới gốc cây Vô ưu lúc mặt trời mọc nhằm ngày trăng tròn tháng 2 Ấn Độ tức ngày rằm tháng tư âm lịch năm 623 trước Tây lịch.
Thái tử sinh ra
có 32 tướng tốt. Nhà tướng số A-Tư-Đà (Asita) nói rằng nếu làm vua thì Ngài là
bậc chuyển luân Thánh Vương, nếu xuất gia sẽ thành bậc Đại Giác (Phật).
Câu hỏi : Bạn hãy cho biết Phật lịch được tính từ thời điểm nào trong cuộc đời Đức Phật ?
3. ĐỜI SỐNG CỦA THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA:
Sau khi sinh Thái Tử
được 7 ngày thì Hoàng hâu Ma-Gia từ trần, vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà dì
là Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề (Maha Pajàpati) nuôi nấng. Lớn lên, vua Tịnh Phạn mời các
vị giáo sư, võ sư danh tiếng dạy Thái tử cả văn lẫn võ. Các vị thầy đều bái phục
sự thông minh phi thường của Thái tử. Ngài dửng dưng với cảnh sống xa hoa trong
cung điện nguy nga tráng lệ, nét mặt Thái tử luôn trầm tư, mặc tưởng, để lộ nỗi
buồn sâu xa kín đáo và luôn khiêm tốn với mọi người. Biết được tâm trạng của
con, vua cha hết sức lo lắng và tìm mọi cách để làm khuây khoả Thái
tử. Năm 17 tuổi vua cha cưới công chúa Da-Du-Đà-La (Yosodhara) con của
vua Thiện Giác (Suppabuddha) cho Thái tử, sau khi Ngài đã thắng tất cả các
thanh niên dự cuộc tỉ thí trong cuộc thi chọn phò mã theo cổ tục Ấn Độ lúc bấy giờ. Vợ Thái tử sinh được
một hoàng nam tên là La-Hầu-La (Ràhula).
II. GIAI ĐOẠN THÁI TỬ TIẾP XÚC VỚI ĐỜI VÀ XUẤT GIA :
1. THÁI TỬ TIẾP XÚC VỚI ĐỜI
Sau nhiều lần yêu cầu
khẩn thiết, vua cha mới miễn cưỡng cho phép Thái tử du ngoạn ngoại thành để có
dịp tiếp xúc với cuộc sống đời thường. Qua các lần thăm viếng, Thái tử đã suy
tư về các sự thật sanh, lão, bệnh, tử và hình ảnh thanh thoát của vị sa
môn.
2. THÁI TỬ XUẤT GIA :
Qua cuộc hỏi đáp ngắn
với vị sa môn, Thái tử chợt hiểu rằng muốn cứu khổ chúng sanh thì tự thân phải
xuất gia tầm đạo. Vào lúc nửa đêm ngày 8 tháng 2 âm lịch, sau khi
nhìn lần cuối vợ con yêu dấu đang say nồng trong giấc ngủ, Thái tử cùng người hầu Xa-Nặc (Channa) cưỡi con tuấn mã Kiền-Trắc (Kantaka) vượt thành ra đi tìm con
đường giải thoát cho mình và chúng sinh. Năm ấy Ngài vừa tròn 19 tuổi (theo Bắc
truyền).
III. GIAI ĐOẠN TU TẬP - THÀNH ĐẠO - NHẬP DIỆT
1. CON ĐƯỜNG TU TẬP CỦA THÁI TỬ :
Sau khi chia tay
Xa-Nặc, đổi áo cẩm bào lấy áo hoại sắc bên bờ sông Anoma (Anoma River) nay có thể đổi tên là Dano River , Thái tử dấn
thân vào con đường tìm đạo. Qua 5 năm tìm thầy học đạo bao gồm Alama Kalam (Alarama Kalama) và Uất Đầu Lam Phất (Uddaka Ramaputta) Ngài nắm bắt rất nhanh
giáo nghĩa các đạo sư này nhưng chưa có đạo nào hướng đến giải thoát
chân chính, Ngài nghĩ phải tự minh chuyên tu mới tìm ra chánh đạo.
Ngài đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà, tu khổ hạnh với 5 người bạn là A Nhã Kiều Trần Như Ajnata-Kaundinya, Bạt Đề (Bhaddiya), Thập Lực Ca Diếp (Dasabala-Kasyapa), Ma Nam Câu Lợi (Mahanama), và Át Bệ (Assaji)
Ngài tu khổ hạnh, và thiền định ở những nơi vắng vẻ trong hang động (Hang Khổ Hạnh) gần nghĩa địa vắng vẻ trong 6 năm (nhịn ăn, ép xác), thân thể suy kiệt trầm trọng. Cho đến một hôm sau khi ngồi thiền định Ngài chợt nghĩ ra Thân & Tâm là một thực thể không thể tách rời, sự an lạc của Thân liên hệ đến sự an lạc của Tâm tự hành hạ thân xác quá mức không ích gì cho việc cầu đạo giải thoát. Ngài quyết định suối dòng suối Ni Liên Thuyền tắm gội và sẽ ăn uống trở lại.
Nhưng sức quá yếu nên trên đường vào làng Ưu lâu tần loa Ngài đã bất tỉnh giữa đường, may nhờ dùng bát sữa do nàng Tu-xà-Đề (Sujata) đem dâng, sức lực Ngài dần hồi phục.
Khi đó 5 người bạn đồng tu tưởng lầm Ngài
thối chí nên bỏ đi.
Câu hỏi : Hãy cho biết tên của 5 anh em Kiều Trần Như ?
2. THÁI TỬ THIỀN ĐỊNH VÀ THÀNH ĐẠO:
Ngài trở về trải thảm cỏ nơi gốc cây Bồ Đề (Bodh Gaya) nay là Bồ Đề Đạo Tràng ngồi tĩnh lặng tham thiền trong 49 ngày. Với định lực cao cường, Ngài đã chiến thắng nội ma, ngoại chướng.
Đêm mùng 8 tháng chạp âm lịch Ngài đã chứng được TamMinh
Canh hai : Ngài chứng Túc Mạng Minh
Canh ba : Ngài chứng Thiên Nhãn Minh
Canh tư : Lậu Tận Minh.
Đến lúc sao mai vừa mọc, Ngài thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ, đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chánh Đẳng Chánh Giác” nên được gọi là bậc Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
3. GIAI ĐOẠN ĐỨC PHẬT TRUYỀN ĐẠO --> NHẬP DIỆT :
A. ĐỨC PHẬT TRUYỀN ĐẠO
Sau khi quán chiếu về căn cơ của chúng sanh, Ngài nói bài pháp đầu tiên “Tứ diệu Đế” cho ông Kiều Trần Như và 4 người bạn đồng tu tại Vườn Nai (Lộc Uyển). Nghe xong tôn giả Kiều Trần Như chứng quả Tu Đà Hoàn. Từ đó Tăng đoàn đầu tiên được hình thành và 3 ngôi báu: Phật - Pháp - Tăng được xác lập. Trong quá trình hoằng dương chánh pháp, hệ thống Tăng đoàn không ngừng phát triển rộng khắp trên nhiều vương quốc trong lãnh thổ Ân Độ xưa mặc dù Ngài và Tăng đoàn gặp rất nhiều chướng duyên.
Trong hàng vạn đệ tử giữ giới đức trang nghiêm của Phật có 10 vị đứng đầu trên 10 phẩm hạnh khác nhau: Thập Đại Đệ Tử
1. Ma Ha Ca Diếp – đầu
đà đệ nhất.
2. Xá Lợi Phất - trí
tuệ đệ nhất.
3. Mục Kiền Liên -
thần thông đệ nhất.
4. Phú Lâu Na - thuyết
pháp đệ nhất.
5. Ưu Ba Ly – trì giới
đệ nhất.
6. Ca Chiên Diên -
luận nghị đệ nhất.
7. A Nan Đà – đa văn
đệ nhất.
8. A Na Luật – thiên
nhãn đệ nhất.
9. Tu Bồ Đề - giải
không đệ nhất.
10. La Hầu La -
mật hạnh đệ nhất.
Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề
là người phụ nữ đầu tiên được Đức Thế Tôn cho xuất gia, ông Tu Bạt Đà La
(Subhadda) hơn 80 tuổi là đệ tử sau cùng của Phật trước khi Ngài nhập diệt.
B. NĂM THỜI THUYẾT PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT
Trong cuộc đời hoằng
hoá 49 năm của Đức Phật, tuỳ theo căn cơ của mọi người mà Ngài thuyết pháp giáo
hoá. Kinh pháp của Phật nói ra, các đệ tử kết tập chia thành 5 thời:
+ Thời thứ nhất: Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày theo sự kiền thỉnh của Chư Thiên, chư bồ Tát.
+ Thời thứ hai: Phật
nói kinh A Hàm 12 năm cho quần chúng để tự độ.
+ Thời thứ ba: Phật
nói kinh Phương Đẳng 8 năm nhằm tự độ và độ tha.
+ Thời thứ tư: Phật
nói kinh Bát Nhã 22 năm, Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết minh
cái thật tướng vô tướng của các pháp.
+ Thời thứ năm: Phật
nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn 8 năm.
Ngài nói rõ bản hoài
của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: “khai thị chúng sanh ngộ nhập
Phật tri kiến”.
Link tham khảo : https://tailieutuhocgdpt.blogspot.com/2021/07/tham-khao-nam-thoi-thuyet-phap-cua-uc.html
C. ĐỨC PHẬT NHẬP DIỆT:
Ngày rằm tháng 2, Ngài
đến xứ Câu Thi La (Kushinagar) vào rừng Xa Nại cho đệ tử treo võng giữa 2 cây Sa la song
thọ, Ngài giảng giải, khuyên dạy hàng đệ tử cũng như thọ giới cho vị đệ tử cuối cùng là ông Tu-Bạt-Đà-La rồi an nhiên đi vào
Niết Bàn. Ngài trụ thế 80 năm sau 49 năm hoá độ chúng sanh.
“Nhứt bát thiên gia
phạn,
Cô thân vạn lý du
Kỳ vị sanh tử sự
Giáo hoá độ xuân thu”
(một bát cơm ngàn nhà,
một thân đi vạn dặm; vì vấn đề sanh tử; giáo hoá độ ngày qua).
Ngài xứng đáng được
muôn loại chúng sanh kính ngưỡng, tán thán công đức và mãi mãi nhớ ơn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
0 Nhận xét