I. ĐỊA VỊ NGƯỜI TẠI GIA:
Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế giáo hội đã lập gồm có bốn chúng đồng tu:
Tỳ Kheo (Nam xuất gia)
Tỳ Kheo Ni (Nữ xuất gia)
Ưu Bà Tắc (Nam tại gia)
Ưu Bà Di (Nữ tại gia)
Tuy nhiên 2 chúng xuất gia (Tỳ kheo và tỳ kheo ni) là những người đã có chí nguyện và nhân duyên vượt thoát được sự ràng buộc của gia đình để hướng tới sự toàn tâm toàn ý thực hiện di huấn của đức Phật. Riêng 2 chúng tại gia (Ưu bà tắc và Ưu bà di) là những người chưa hội đủ nhân duyên để vượt thoát được sự ràng buộc của đời sống thế tục, tuy vậy vẫn phát lập hạnh nguyện trì những giới luật của đức Phật đặt ra để hướng tới sự tìm cầu giải thoát, độ sanh. Mà những cư sĩ tại gia tiêu biểu đó là Duy Ma Cật và Thắng Man Phu nhân.
Đối với giáo lý Tiểu thừa người tại gia giúp đỡ cho người xuất gia đủ điều kiện truyền bá và thực hiện chánh pháp. Pháp bảo và Tăng bảo tồn tại được là nhờ người tại gia hộ trì. Từ đó địa vị người tại gia là địa vị cần thiết và quan trọng đối với giáo lý Tiểu thừa.
Đối với giáo lý Đại Thừa quan niệm rằng Phật Đà mới là giai đoạn tuyệt đích của sự giác ngộ, tại gia hay xuất gia là những phương tiện đều quan trọng. Cho nên xuất gia hướng thượng tại gia hiệp thế, nhưng cái tâm trí cầu mong Đại Bồ Đề với trách nhiệm giữ gìn chánh pháp có giá trị như nhau. Vì vậy, nếu người tại gia mà phát Bồ Đề Tâm, xác nhận và phục vụ trách nhiệm tu Đạo, học Đạo, hộ Đạo của mình thì cũng được tu tập Bồ Tát hạnh và sẽ thành quả Vị Phật Đà.
Với quan niệm đó, địa vị người tại gia thật quan trọng đối với Đạo, đối với gia đình, đối với xã hội, người tại gia thể hiện đúng đắn mục đích phụng sự chánh pháp của mình quả là quan trọng một cách rõ ràng.
Vậy nhiệm vụ của người tại gia làm tròn thì con người của họ đổi mới, gia đình của họ hạnh phúc và xã hội của họ an lạc. Từ đó Phật Pháp được xiển dương và tồn tại ngay trong cuộc đời với ý nghĩa lời dạy của Đức Phật “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”.
II. NGƯỜI TẠI GIA PHẢI THẾ NÀO:
Người tại gia tức không thoát ly gia đình, không thoát ly hình thức sinh hoạt của thế gian, mà phải thực hiện cơ bản của Phật pháp ngay trong hình thức sinh hoạt tu học hằng ngày. Chính hình thức sinh hoạt của người tại gia tức là sinh hoạt của thế gian mới là vấn đề Đức Phật chú ý. Mỗi hình thức sinh hoạt này, căn bản là con người, phạm vi bao gồm cả gia đình và xã hội con người mà người tại gia (trong đó có người Đoàn viên GĐPT) là những người trực tiếp việc cải hóa bản thân, gia đình và xã hội. Người tại gia trong cuộc sống hằng ngày phải đem Phật pháp hoán cải sự sinh hoạt. Cho nên khi làm một người tại gia là chúng ta làm một cuộc tái sanh cho đời ta, từ bỏ cuộc đời xuôi dòng dục lạc, bước vào cuộc sống lý tưởng chân thật và hữu ích. Vậy người tại gia phải cố gắng sống đúng lý tưởng của người tại gia - nghĩa là duy nhất với Tam Quy, kiên chí trong ngũ giới, luôn luôn thực hành năm hạnh: Tinh tấn, Hỷ xả, Thanh tịnh, Trí huệ và Từ bi.
III. MỤC ĐÍCH CỦA NGƯỜI TẠI GIA:
Mục đích của người tại gia:
Người tại gia phải thực hiện mục đích là hoán cải sự sinh hoạt, sự sinh hoạt của con người và gia đình, xã hội của con người. Trong gia đình, xã hội của cuộc sống là do hành vi manh động của con người, những hành vi ấy cần phải hoán cải và có thể hoán cải được. Mọi việc đều do con người sắp xếp thì cũng do con người xóa và con người có thể xóa bỏ được để thay thế vào đó những thứ mà cuộc sống con người cần thiết và mong mỏi đem lại thanh thoát an vui và tự tại.Người tại gia phải sống cho xứng với danh nghĩa con người:
Người tại gia phải sống cho xứng nghĩa người, cho tròn nhân cách phải luôn luôn trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh để cho thân tâm an lạc thanh tịnh, hầu hưởng hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát trong tương lai. Người tại gia phải quyết tâm thực hiện giữ ngũ giới, tu Thập Thiện, sám trừ phiền não, chuyên tâm niệm Phật, tọa thiền, phát tâm từ bi tế độ. Có như thế thì người tại gia mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải thoát.
IV. NGƯỜI TẠI GIA PHẢI HIỂU ĐỨC PHẬT:
Ở các tôn giáo khác:
Người tín đồ phải biết tin đấng giáo chủ mà tuyệt đối không dám tìm hiểu về vị giáo chủ ấy. Phật giáo thì lại khác, một tín đồ phải hiểu rõ Đức Phật mới có thể bước theo dấu chân của Ngài trên đường giác ngộ.Tìm hiểu về Đức Phật:
Địa vị của Đức Phật là địa vị vô thượng tuyệt đích của sự giác ngộ, địa vị ấy chúng ta cũng có thể đạt đến được. Chúng ta cần hiểu ý niệm ấy làm tín đồ Phật giáo lời dạy của Đức Phật “Ngài là đức Phật đã thành mà chúng ta là đức Phật sẽ thành”. Đức Phật đã thành Phật vì Ngài có khả năng giác ngộ và Ngài đã phát huy viên mãn khả năng đó. Chúng ta vốn có khả năng đó thì chúng ta có làm cái việc phát huy như Ngài. Như vậy Ngài là gương mẫu tối cao, một mục đích tối hậu cho việc tu học của chúng ta.
Trong kinh, gọi đức Phật là phải có đủ ba đức:
a. Đoạn Đức: Tức diệt sạch tất cả những hiện trạng phát hiện ra ngoài những động lực tiềm tàng bề trong của các phiền não, tham, sân, si ba thứ độc ấy gây ra tham tàn, giết chóc và manh động.
b. Trí Đức: Tức giác ngộ một cách cùng tột, tất cả những hiện tượng riêng biệt và những đặc tánh tương quan của vạn hữu, Tánh, Tướng, Dụng không mặt nào không chứng ngộ, tức là thể nghiệm được tánh cách của vạn hữu, biết rõ được biến thái của hiện tượng và hoạt dụng được năng lực của Pháp (nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải).
c. Ân Đức: Tức cứu độ một cách bình đẳng tuyệt đối và phổ biến tất cả các loài chúng sanh, làm cho chúng sanh chuyển mê khai ngộ, bỏ ác làm lành để hết khổ được vui.
Ba đức trên đã hoàn toàn viên mãn. Nhưng ba đức ấy là sự biểu hiện toàn thể của “Khả năng giác ngộ”. Phật tánh mà ai cũng vốn có khả năng ấy đức Phật đã xác định có ba phần:
Đức Dũng tức là năng lực thực hiện Đoạn đức, Đoạn đức là sự biểu hiện cụ thể của đức Dũng.
Đức Trí tức là năng lực thực hiện Trí Đức, Trí đức là sự biểu hiện cụ thể đức Trí.
Đức Bi tức năng lực thực hiện Ân đức, Ân Đức là sự biểu hiện cụ thể đức Bi.
Bi, Trí, Dũng là thành phần của Phật tánh, Đức Phật đã phát huy đầy đủ Phật tánh ấy nên đạt đến địa vị Phật Đà, hoàn thành Đoạn Đức, Trí Đức, Ân Đức.
V. ĐẠI CƯƠNG GIÁO LÝ CỦA NGƯỜI TẠI GIA:
Theo phần Phật Pháp căn bản được bao gồm trong Tạng kinh mà cốt lõi là:
Hệ thống A Hàm: (giải thích triết lý Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã gọi là tứ pháp ấn).
Hệ thống Bát Nhã: (giải thích tự tánh các pháp là không, chỗ tánh không ấy là tướng chân thật).
Hệ thống Pháp Hoa, Niết Bàn, Hoa Nghiêm: (giải thích chúng sanh có tánh Giác gọi là Trí Huệ Phật, Tri Kiến Phật, Niết Bàn...).
Nhưng đối với người tại gia gồm có hai phần: Phần căn bản, Phần hướng thượng.
“Phần Căn Bản” là giáo lý làm nền móng đầu tiên, “Hướng Thượng” là giáo lý tiến dẫn bước lên nữa. Phần căn bản nội dung giáo lý là:
TAM QUY VÀ NGŨ GIỚI
Căn bản là sự tu hành cũng như mục tiêu mà Phật pháp hướng đến là nhân cách và gia đình cùng xã hội của con người. Con người phải được đổi mới trước tiên. Con người đổi mới, đó là cơ bản của sự tu hành và mục tiêu đầu tiên của Phật Pháp. Quy y Tam Bảo là đặt mình trên con đường bước theo dấu chân Tam Bảo không thối chuyển, người tại gia đã phát nguyện Quy Y là chúng ta đặt định hướng cho cả cuộc đời tiến bước vào con đường giác ngộ:
Cái đích ánh sáng chân lý cho cuộc đời người tại gia là Giác ngộ giải thoát.
Những phương tiện để đi đến ánh sáng chân lý là Pháp. Những bậc thầy dìu dắt đến ánh sáng chân lý là Tăng.
Ngũ giới là căn bản tạo thành nền móng đạo đức và sự an lành cho bản thân. Không sát sanh, bản thân ta không bị người giết hoặc tù tội về giết người, không còn thù hận gì, cuộc sống chúng ta không kinh hoảng sợ hãi, do thù hận gây nên. Không trộm cắp, bản thân ta không mắc tù tội về trộm cướp, ở đâu hay đến chỗ nào khỏi bị người ta nghi ngờ. Không tà dâm, bản thân ta khỏi lao tâm tổn trí, khỏi sợ ai phê phán và được mọi người yêu mến. Tự mình an ổn, gia đình cũng yên vui. Không nói dối, chính ta không phải hối hận, lời nói tự có giá trị, gây được niềm tin của mọi người. Không uống rượu, bản thân khỏi bị tệ nạn điên cuồng mất trí, khỏi gây cơ thể bệnh hoạn suy yếu, khỏi bị người khinh thường trong lúc say sưa.
Trong 5 giới nếu gia đình nào giữ gìn trọn vẹn gia đình ấy có hạnh phúc, trên thuận dưới hòa, tin yêu thuần cẩn. Nếu mọi người trong xã hội biết vận dụng 5 giới thì xã hội văn minh tiến bộ, mọi người an vui, cảm thông và thương mến nhau như ruột thịt.
Vậy người tại gia muốn hoán cải đời sống cá nhân, gia đình xã hội tức là thực hành 5 giới bằng hành vi và động lực của hành vi là tâm lý hoàn thành nhân cách.
Về phần hướng thượng nội dung gồm có Thiện Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác thừa và Đại Thừa. Thiện Thừa tiến dẫn con người đến phước lạc chư thiên bằng sự thực hành mười điều thiện, Thanh Văn thừa dẫn con người đến địa vị La Hán bằng sự giác ngộ 4 Đế, Duyên Giác bằng sự giác ngộ 12 nhân duyên. Đại thừa là giáo lý tiến dẫn con người tu tập Bồ Tát hạnh để đạt đến quả vị Phật Đà.
VI. Ý NGHĨA TAM QUY VÀ NGŨ GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA:
Ý nghĩa đại cương của Tam Quy và Ngũ Giới bên qui định sự tín ngưỡng cho chân chánh và một bên qui định sự hành động cho hợp lý. Muốn hoán cải gia đình và xã hội theo căn bản trước hết phải cải hóa con người. Vì con người xấu thì hành động theo xấu. Mà sở dĩ hành động của con người xấu là vì tâm lý xấu. Do đó:
Phương pháp hoán cải tâm lý con người là Tam Quy (Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng) vì Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu vô thượng mà người Phật tử vì tự cố hoán cải đời mình đã tự mình quay về nương tựa.
Phương pháp hoán cải hành động con người là Ngũ Giới. Vì khi người Phật tử đã bỏ đường tà, quay lại đường chánh, quy định cho tâm trí mình phải tôn trọng sự sống (bất sát), tôn trọng tài sản (bất đạo) tôn trọng trinh tiết (bất dâm) của người, giữ đức thành thực (bất vọng), giữ tánh sáng suốt (bất ẩm) của mình. Cho nên ngũ giới là phương pháp đổi mới con người, đào tạo một nhân cách xứng đáng với danh nghĩa của con người.
VII. CÁCH THỨC THỌ TRÌ TAM QUY VÀ NGŨ GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA:
Tam quy ngũ giới là phương pháp không thoát ly hình thức sinh hoạt của toàn diện đời sống con người mà chính nó hoán cải cho hình thức sinh hoạt ấy được an lạc và làm căn bản cho hướng thượng của con người.
Cách thức thọ Tam Quy Ngũ Giới, người Phật tử phải hiểu cách thức nguyên chế của Phật như trong kinh Ưu Bà Tắc. Khi một Phật tử có ý định xin thọ tam quy ngũ giới thì có thể tìm vị Tăng Thanh Tịnh để chỉ bảo về ý nghĩa thọ Tam Quy ngũ giới tối thiểu 6 tháng, vị tăng hòa hợp chúng Tăng lại đủ 20 người, tác bạch yết ma “Kính Bạch Đại Đức chúng Tăng nghe cho ông (bà) này nay đối trước Đại Đức chúng Tăng xin thọ Ưu Bà Tắc hay Ưu Bà Di giới. Trong 6 tháng người này đã thanh tịnh bốn uy nghi cư chỉ, chí tâm thọ trì tịnh trang nghiêm giới.
Nếu đàn ông đủ các cơ quan của thân thể đàn ông. Nếu đàn bà cũng như trên. Vậy Đại Đức chúng Tăng nếu ai hứa cho thì xin yên lặng. Nếu ai không hứa cho thì xin nói ra. Khi Đại Đức chúng tăng hứa cho cả rồi thì vị Tăng (bổn sư) nói lại với người cầu thọ Ưu bà tắc hay Ưu bà di giới.
Những điều cần chú ý trong lúc thọ tam quy ngũ giới:
Vị thầy truyền giới nói giới thì người thọ giới phải biết một cách rõ ràng.
Người thọ giới cần phải hiểu lời nói của vị thầy truyền giới.
Vì thọ giới là sự tự nguyện mà thệ nguyện đến 3 phen để giữ, nên người thọ giới phải hiểu rõ lời thệ của mình và lời người làm thầy cuộc thệ ấy.
VIII. NGƯỜI TẠI GIA ĐỐI VỚI BẢN THÂN, GIA ĐÌNH, XÃ HỘI:
Đối với bản thân: Người tại gia phải:
a. Về tâm lý thì phải giữ ngũ giới.
b. Về hành động không được phạm ngũ giới.
c. Về bè bạn thì phải tránh những kẻ nguy hiểm mà gần với bậc Thiện trí thức.
d. Về nghề nghiệp thì phải tránh những nghề hại tâm đức, hại kinh tế nhất là 5 điều nên tránh: Không buôn bán sinh mạng, không buôn bán khí giới, không buôn thuốc độc, không buôn rượu và chất gây nghiện.
e. Về giáo dục thì phải tránh những nơi nguy hiểm như kinh Ưu Bà Tắc nói: Không được đi đến lò mổ, nơi hoa nguyệt, quán rượu chè, và không thân gần là kẻ cờ bạc, kẻ rượu chè, kẻ dối trá, kẻ buôn rượu.
Tóm lại: Một nhân cách trong và ngoài đều đổi mới như các điều trên đây thì con người ấy xứng đáng là “một con người mới”. Con người mới ấy, tất cả người tại gia phải tự tạo cho mình đời mà đã biết đời mình thế nào là do mình tự chịu trách nhiệm và mình có trách nhiệm đổi mới tất cả.
Người tại gia đối với gia đình:
a. Duy trì kinh tế gia đình.
b. Cảm hóa gia đình: Tạo sự an lạc trong gia đình, người thân phải ăn ở thuận hòa, biết chuyển hóa cơn giận. Vợ phải cảm hóa chồng, chồng phải cảm hóa vợ, rồi vợ chồng phải cảm hóa con cháu, từ thế hệ này qua thế hệ khác, mãi mãi truyền cho nhau ánh sáng vô tận của đạo Phật. Trong nhà phải thiết lập bàn thờ Phật.
c. Trừ bỏ những tập tục mê tín dị đoan: Đốt giấy vàng bạc, xin xăm, bói toán.
Người tại gia đối với xã hội:
a. Xem xã hội là đại gia đình hiểu ý của Kinh Hoa Nghiêm, xem tất cả đàn ông là cha, tất cả đàn bà là mẹ và ý nghĩa kinh 42 chương, Kinh Thiện Sinh, Tứ Ân.
b. Thực hành tứ nhiếp pháp: Bố Thí – Ái Ngữ – Lợi Hành – Đồng Sự.
IX. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI TẠI GIA:
Phải áp dụng Phật pháp vào đời sống của mình:
Phải tu đạo, hiểu đạo.
Phải gương mẫu (tự lợi, tự tha).
Phải luôn tỏ ra mình là người Phật tử:
Luôn luôn tưởng nhớ Phật và kính trọng thân mến người đồng đạo.
Góp sức và tinh tài nếu có vào trong các tổ chức Phật giáo để làm những công việc hữu ích.
Khước từ thực sự những sự hợp tác với ngoại đạo tà ma. Và trừ khử những cử chỉ rụt rè, thái độ thụ động và trốn trách nhiệm Phật sự.
Phải có tinh thần trách nhiệm và từ bỏ sự tự ti mặc cảm:
Thực tế chứng tỏ sự duy trì Phật pháp trong gia đình và xã hội, người tại gia là người chủ động mà lại chủ động trực tiếp. Do đó Phật pháp còn hay không còn trong gia đình và xã hội là trách nhiệm trực tiếp của người tại gia. Không nên cho rằng việc duy trì Phật pháp chỉ quan trọng ở các thầy mà người tại gia phải có trách nhiệm duy trì Phật pháp để cải hóa bản thân, cải hóa gia đình và xã hội.Phải hành động tích cực và thực tế vấn đề hộ pháp:
Người Phật tử tại gia phải có những hoạt động tích cực thực tế một cách tế nhị. Người tại gia luôn luôn phụng sự chánh pháp và bảo vệ chánh pháp.
Người tại gia phải thực hành lời Phật dạy – bảy phương pháp để giữ cho chánh pháp và giáo đoàn không bị suy thoái:
Thứ nhất là các đơn vị thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi họp đồng để học hỏi và bàn luận về chánh pháp.
Thứ hai là các vị tới với nhau trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết và chia tay trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết.
Thứ ba là biết tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi giới luật và pháp chế ấy đã được ban hành.
Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời các bậc trưởng lão có đạo đức và có kinh nghiệm trong giáo đoàn.
Thứ năm là sống một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để lôi cuốn vào tham dục.
Thứ sáu là biết quý đời sống tĩnh mặc.
Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.
X. KẾT LUẬN:
Trong Phật giáo, người tại gia cũng như người xuất gia vốn là tổ chức có hữu do Đức Phật quy định, người Phật Tử tại gia phải tích cực hoạt động để cảm hóa gia đình, phục vụ xã hội. Người Phật Tử tại gia luôn luôn thành thực bộc lộ tín ngưỡng của mình và tinh thần gánh vác trách nhiệm, phối hợp với những hoạt động dù nhỏ nhưng thực tế đứng mảnh. Chính ý niệm đó giúp chúng ta Tu Đạo, Học Đạo, Hộ Đạo để Phật pháp ngày càng sáng lạn huy hoàng, không phải với những hình thức đồ sộ, mà là những sự cải hóa đẹp đối với toàn diện đời sống của mình./.
0 Nhận xét