Header Ads Widget

Responsive Advertisement

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA


LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA



I-                   Bối cảnh xã hội Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời.
Xã hội Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời đầy sự bất công, thiếu tính bình đẳng và được phân chia thành 4 giai cấp:
1.      Bà La Môn: tầng lớp lãnh đạo cao nhất về mặt tinh thần.
2.      Sát Đế Lợi: giới quý tộc dòng dõi vua chúa.
3.      Phệ Xá: tầng lớp địa chủ, thương gia.
4.      Thủ Đà La: giai cấp nô lệ, hạ tiện trong xã hội Ấn Độ.

II-                Thân thế Đức Phật Thích Ca.
-          Ngài tên là Tất Đạt Đa.
-          Hiệu là Thích Ca.
-          Họ là Kiều Tất La.
ð  Cả tên lẫn họ được đọc đầy đủ là: Kiều Tất La Thích Ca Tất Đạt Đa.
-          Ngài là con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia, nước Ca Tỳ La Vệ (Ấn Độ hiện nay).

III-             Sự kiện Đản Sanh.
-          Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu xuất nhận lời cầu thỉnh của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia sẽ hạ sanh.
-          Sau giấc mộng thấy voi trắng 6 ngà hút vào bên hông và hoàng hậu Ma Gia thụ thai.
-          Sắp đến ngày sanh, hoàng hậu Ma Gia trở về nhà cha mẹ. Trên đường về, đi qua vườn Lâm Tỳ Ni thấy trăm hoa nở rộ, trong đó có hoa Vô Ưu (không ưu phiền hay còn gọi Tất Bát La), hoàng hậu vớt tay vịnh cành hoa liền hạ sanh Thái Tử vào ngày trăng tròn tháng VESAK năm 624 TCN tức ngày rằm tháng 4 âm lịch.
-          Thái Tử ra đời liền đi 7 bước nở hoa sen và nói: “Thiên Thượng Thiên hạ duy ngã độc tôn.”
-          Thái tử được đặt tên là Tất Đạt Đa (nghĩa là được toại nguyện).
-          Ngày Thái tử Đản Sanh, nhạc trời chúc tụng, mưa hoa cúng dường, quả đất rung động 7 lần.
(thiếu)

IV-             (thiếu).
V-                (thiếu)
VI-             (thiếu).
VII-          (thiếu).
VIII-       (thiếu).


IX- Sa môn Cồ Đàm tham thiền và chứng đạo.
-          Sa Môn Cồ Đàm tham thiền, ma vương tìm mọi cách quấy phá nhưng không lay chuyển được Ngài.
-          Sau 49 ngày tham thiền, vào đêm trăng tròn, mồng 8 tháng chạp là ngày Ngài chứng quả.
+ Đầu canh 2: chứng quả Túc Mạng Minh- thấy được kiếp trước của mình, của người.
+ Đầu canh 3: chứng quả Thiên Nhãn Minh- thấu triệt được những sự sống chết, luân hồi của vạn vật.
+ Đầu canh 4: chứng quả Lậu Tận Minh- thấu triệt được nguồn gốc của sự khổ đau dùng trí tuệ để diệt trừ.
-          Đến lúc sao Mai vừa mọc của ngày 8 tháng chạp, Ngài chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

X- Chuyển Pháp luân (thuyết Pháp độ chúng sanh).
-          Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp đầu tiên cho 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển (vườn nai) với bài Pháp Tứ Diệu Đế (4 sự thật vi diệu) và kể từ đây Tam Bảo được hình thành.

XI- Thời kỳ truyền bá chánh Pháp.
-          Với tinh thần mà Đức Phật công bố:
“Ta là Phật đã thành
Chúng sanh là vật sẽ thành”.
Và:Không có giai cấp trong giọt nước mắt cùng mặn và dòng máu cùng đỏ”
-          Từ đó, Đức Phật truyền bá Phật Pháp và tiếp nhận đệ tử không phân biệt giai cấp, giới tính, tôn giáo và những người độc ác. Tiêu biểu trong tăng đoàn của Đức Phật có những vị tôn giả xuất thân từ:
+ Đạo sĩ thờ thần lửa như: Na Đề Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa, Ca Diếp và Gia Da Ca Diếp.
+ Thành phần hoàng tộc vua chúa đi tu: A Nan, La Hầu La, A Nậu Lâu Đà.
+ Đạo sĩ Bà La Môn: ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên.
+ Thành phần cùng đinh của xã hội: người gánh phân Ni Đề.
+ Thành phần thợ thủ công: thợ hớt tóc Ưu Ba Li.
+ Thành phần bị xã hội lên án: tướng cướp Vô Não, kĩ nữ Liên Hoa Sắc.
+ Những người bao lần hại Phật như Đề Bà Đạt Đa đều được hóa độ.
·         Đặc biệt, Đức Phật đã độ cho bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và lập nên ni đoàn. Đây là một cuộc cách mạng lớn của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
-          Trong suốt 49 năm thuyết Pháp được cô đọng lại trong bài kệ:
“Hoa nghiêm tối sơ tam thất nhật
  Thập Nhị A Hàm phương Đẳng bát
  Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm
  Pháp Hoa niết bàn cộng bát niên.”





Dịch:
“21 ngày đầu thuyết kinh Hoa nghiêm
  12 năm thuyết kinh A Hàm
  8 năm thuyết kinh phương đẳng
  22 năm thuyết kinh Bát Nhã
  8 năm cuối cùng thuyết kinh Pháp Hoa Niết Bàn.”

XII- Những ngày cuối đời và nhập diệt.
-          Sau 49 năm thuyết Pháp, Đức Phật quyết định nhập diệt.
-          Ngày đi khất thực cuối cùng, Ngài thọ nhận bát cháo nấm của người thợ rèn Thuần Đà. Đây là bát cháo nấm độc, Đức Thế Tôn thọ bệnh, Ngài thông báo sẽ nhập diệt.
-          Đức Phật và A Nan đi đến rừng Ta La Song Thọ tại thành Câu Thi Na bên dòng sông Ni Liên Thuyền (Kim Hà). Ngài nằm giữa 2 cội cây Ta La, mắt nhìn về hàng đệ tử và dặn dò: “Khi Phật diệt độ, các ông phải lấy Giới Luật làm thầy, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
-          Trong những giây phút sau cùng, Đức Phật đã độ cho người đệ tử cuối cùng là ông Tu Bạt Đà La (102 tuổi).
-          Nhân duyên kết thúc nơi cõi Ta Bà, Đức Phật nhập diệt vào ngày rằm tháng 2 âm lịch.
-          Ngài trụ thế 80 năm để lại cho nhân loại Tam Tạng Kinh Điển (Kinh- Luật- Luận) với chân lý giải thoát và giác ngộ.

XIII- Kết luận.
Cả cuộc đời Đức Phật tu học, chứng quả, thành đạo vì mục đích lợi ích cho chúng sanh. Điều đó thể hiện cho lòng từ bi vô lượng, trí tuệ sáng suốt và dũng lực phi thường mới vượt qua được cám dỗ của cuộc sống. Ngài là hiện thân của sự bình đẳng không phân biệt giai cấp. Giáo lý của Đức Phật chỉ dạy cho chúng sanh đúc kết từ sự tu chứng quả của Đức Phật và mục đích cuối cùng mà chúng sanh hướng đến là giải thoát và giác ngộ.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét