Header Ads Widget

Responsive Advertisement

THAM KHẢO : MẠN ĐÀM VỀ 84.000 PHÁP MÔN TU TẬP CỦA PHẬT PHÁP



 MẠN ĐÀM VỀ 84.000 PHÁP MÔN TU TẬP CỦA PHẬT PHÁP

1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ 84.000 PHÁP MÔN
 Theo Tỳ kheo Hộ Pháp trong Nền tảng Phật Giáo: Quyển I - TAM BẢO , đã nói:
 Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia thành pháp môn (Dhammakkhandha) thì có 84.000 pháp môn, trong bộ Tam Tạng như sau: 
 - Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
 - Tạng Kinh gồm có 21.000 pháp môn. 
 - Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 42. 000 pháp môn. 
 Phương pháp đếm pháp môn trong Tam Tạng : 
 - TRONG TẠNG LUẬT: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức Phật chế định điều giới, ban hành giới đến chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni là một pháp môn. Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới v.v... mỗi điều là một pháp môn v.v... 
 Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn. 
 - TRONG TẠNG KINH: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp môn. Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp môn v.v... 
 Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp môn. 
 - TRONG TẠNG VI DIỆU PHÁP : Pháp phân chia mỗi TIKA, mỗi DUKA là một pháp môn, phân loại tâm và tâm sở đồng sinh là một pháp môn v.v... 
 Như vậy, trong Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 42.000 pháp môn. 
 Trong 84.000 pháp môn này, Đức Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp môn, còn 2.000 pháp môn do chư bậc Thánh Arahán thuyết dạy. 
 Như Ngài Đại đức Ānanda, bậc Thủ kho Tàng Pháp Bảo dạy rằng: 
“Dvāsiti Buddhato ganhim 
Dve sahassāni bhikkhuto 
Caturāsitisahassāni 
Ye me dhammā pavattino” (Bộ Theragāthā) 
Dịch nghĩa :
Tôi là Ānanda 
Đã học từ Kim ngôn Đức Phật 
Được tám mươi hai ngàn pháp môn, 
Học từ chư Thánh A-ra-hán 
Góp nhặt được hai ngàn pháp môn, 
Tôi là Thủ kho Tàng pháp Bảo 
Trọn tám mươi bốn ngàn pháp môn. 
 Theo một số học giả khác, trong kinh điển Pāli nguyên thủy không thấy đề cập đến “84 ngàn pháp môn”, mà chỉ có một đoạn văn do Trưởng lão Ānanda trả lời ông Moggallāna người chăn bò, khi ông ấy hỏi Ngài lời dạy của Đức Phật là gì, có tất cả là bao nhiêu pháp. Ngài đáp: “ Trong 84 ngàn pháp, chính tôi được nghe đức Phật giảng 82 ngàn, còn 2 ngàn kia là do các vị tỳ khưu khác thuật lại” (Trưởng Lão Tăng Kệ, 1025, Tiểu Bộ).
 Còn theo Luận sư Buddhaghosa, trong Chú Giải Trưởng Lão Tăng Kệ, có giải thích “pháp” ở đây được hiểu như là “pháp uẩn” (dhammakhandha), nghĩa là đoạn văn về giáo pháp.

2. NÓI VỀ CON SỐ 84.000
 Trong quá trình tu học hay nghiên cứu, chúng ta thường tìm thấy trong kinh, sách hay nghe các vị Tôn túc nhắc đến con số 84.000 ... Trong lòng ai chắc cũng khởi lên sự thắc mắc tại sao con số này luôn được nhắc đến mà không phải là con số nhỏ hơn hay lớn hơn ? Chúng ta tuần tự tìm hiểu sau đây:

* Theo nhà nghiên cứu Đinh Phúc Bảo, “con số 84,000 là phép tính của Ấn Độ, biểu thị SỐ NHIỀU của sự vật, mang tính ước lượng, tượng trưng, thường được biết đến là 84,000, đôi khi gọi tắt là Bát vạn (80,000). Chẳng hạn, khi nói về nhiều phiền não, ta có thuật ngữ 84,000 trần lao; khi nói về nhiều giáo môn, ta có 84,000 pháp môn; khi nói về độ cao của núi Tu-di, ta có 84,000 do-tuần; và khi nói về tuổi thọ của Trời phi tưởng, nhân thọ ở kiếp sơ, ta có 84,000 tuổi.”

* Theo KINH THẮNG - MAN, chánh pháp của Phật thì vô lượng, nhưng được bao hàm trong 84,000 pháp uẩn: “Nay tôi [Thắng-man] nương vào thần lực của đức Phật lại diễn thuyết về ý nghĩa rộng lớn của sự tiếp thu chính pháp.” Đức Phật liền dạy: “Hãy khéo diễn thuyết.” Thắng-man bạch đức Phật rằng: “Tiếp thu chính pháp một cách rộng rãi thì có đến vô lượng, đạt được tất cả Phật pháp, bao gồm 84,000 pháp môn.”
Trích :
https://phapthihoi.org/kinh/Ebooks/Giang-Kinh/Kinh-Thang-Man/Kinh-Thang-Man-HT-Thanh-Tu-Giang.pdf
Trang 8

* KINH TÂM ĐỊA QUÁN , quyển 7, không dùng từ “pháp môn”, mà sử dụng khái niệm “tổng trì môn” (總持門) và cho rằng “ 84,000 tổng trì môn có khả năng kết thúc các chướng hoặc và tiêu trừ binh ma ”.
trích
https://phapthihoi.org/kinh/Ebooks/Giang-Kinh/Kinh-Khac/Kinh-Dai-Thua-Ban-Sanh-Tam-Dia-Quan-HT-Tam-Chau-Dich.pdf

* Phẩm Tựa của KINH PHÁP HOA ghi rằng: “ Pháp sư Diệu Quang này phụng trì tạng Phật pháp ”, trong đó “ tạng Phật pháp ” (佛法藏) chỉ cho kho tàng Kinh điển của Phật, gồm toàn bộ giáo pháp của đức Phật. Phẩm Hiện Bảo Tháp, Kinh Pháp Hoa, có đề cập đến: “thọ trì 84,000 pháp tạng và diễn giảng cho mọi người.”

* Con số 84,000 được KINH HIỀN KIẾP giải thích như sau: “Từ lúc đức Phật mới phát tâm [bồ-đề] đến lúc phân chia xá-lợi, có 350 độ môn, mỗi độ môn đều có 6 ba-la-mật, hợp thành 2,100, lại phối hợp với 4 phần, tạo thành số 8,400, rồi 1 biến và 10 hợp, ta có con số 84,000.”

* Đại từ điển điện tử Phật Quang cho rằng: “Con số 84,000 chỉ là hình dung từ chỉ cho số lượng cực đa, cũng gọi là bát vạn [80,000]. Chủng loại phiền não cực đa nên dụ xưng là 84,000 phiền não, hay 84,000 trần lao. Giáo pháp được Phật giảng dạy với ý nghĩa sâu sắc thường được gọi chung là 84,000 pháp môn (hoặc 80,000 pháp môn), 84,000 pháp tạng (hoặc 80,000 pháp tạng), 84,000 pháp uẩn (hoặc 80,000 pháp uẩn).”

3. MỘT SỐ Ý NGHĨA VỀ CON SỐ 84.000
Phật Học Từ Điển có nói về con số 84.000 như sau:
BÁT VẠN TỨ THIÊN PHÁP MÔN. 
        Tức là vô số phương pháp tu tập để diệt trừ phiền não, chứng đắc Bồ đề. Vì thấy căn cơ của chúng sanh khác nhau, nên Phật dạy Đạo dùng rất nhiều pháp môn mà giáo hóa họ. Lại nữa, tâm bịnh của chúng sanh rất nhiều, cho nên Phật lại dùng vô số phương pháp mà điều trị cho họ, nên gọi là Bát vạn tứ thiên (84.000) pháp môn. 
         Trong quyển Qui Nguyên Trực Chỉ, có đề cập đến vấn đề nầy như vầy: “ Phật thuyết Bát vạn tứ thiên Pháp môn, giai thị đạo nhơn phản vọng nhi qui chơn giã. Kỳ tiệp kính, dị hành giã, duy niệm Phật nhứt môn.” (Nghĩa là: Tám muôn bốn ngàn pháp môn do Phật thuyết đều dắt dẫn người ta trở vọng mà về chơn vậy. Trong đó pháp môn tắt ngang và dễ tu hành, chỉ có một môn niệm Phật mà thôi). 
          Giải thích về việc phát sinh của 84.000 Pháp môn, trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH, Đức Lục Tổ có bảo: Nầy thiện tri thức! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua cũng không lại, chư Phật ba đời từ trong đó mà ra. Phải dùng đại trí huệ nầy đập tan Ngũ uẩn, phiền não, trần lao, tu hành như đây quyết định thành Phật đạo, biến Tam độc thành Giới, Định, Huệ.
          Nầy thiện tri thức! Pháp môn của tôi đây từ một Bát Nhã sanh ra Tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Vì cớ sao ? Vì người đời có Tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ Pháp nầy tức là vô niệm, vô ức, vô trước, chẳng khởi cuồng vọng, dùng tánh chơn như của mình, lấy trí huệ quán chiếu, đối với tất cả Pháp không thủ, không xả, tức là thấy tánh thành Phật Đạo.
BÁT VẠN TẾ HẠNH:  Là Tám muôn nết nhỏ. Gồm: 
        Tỳ Kheo có 250 giới, mỗi giới có bốn oai nghi là (1) Hành, (2) Trụ, (3) Tọa, (4) Ngọa. Tức là 250 x 4 = 1.000.
         Lấy con số 1.000 nầy nhân cho Tam tụ giới của Bồ Tát là (1) Luật nghi giới, (2) Thiện pháp giới, (3) Nhiêu ích chúng sanh giới. Tức là 1.000 x 3 = 3.000.
         Lấy con số 3.000 nầy nhân cho ba Nghiệp về Thân là (1) Sát sanh, (2) Đạo tặc, (3) Tà dâm và bốn Nghiệp về Khẩu là (1) Vọng ngữ, (2) Ỷ ngôn, (3) Lưỡng thiệt, (4) Ác khẩu. Tức là  3.000 x 7 =21.000.
         Lấy con số 21.000 nầy nhơn cho ba thứ Tham, Sân, Si và cái Mạt na thức, gọi chung là bốn mối phiền não là (Ngã si, Ngã kiến, Ngã mạn, Ngã ái). Tức là 21.000 x 4 = 84.000.
         Như vậy, tất cả là bát vạn tứ Thiên tế hạnh, nhưng thường gọi theo số chẵn là bát vạn tế hạnh.
BÁT VẠN TỨ THIÊN :  Tám mươi bốn ngàn (84.000).
         Ngày xưa bên Thiên Trước, muốn tỏ ra vật chi rất nhiều, người ta thường dùng con số Bát vạn tứ thiên. Trong văn chương Phật học cũng hay nêu con số ấy mà chỉ những vật khó đếm, khó tính, như Bát vạn tứ thiên trần lao, Bát vạn tứ thiên Pháp môn.
Trong một chén nước có vô số vi trùng, Phật nói : Bát vạn tứ thiên trùng. Núi Tu Di rất cao, khó mà tính số do tuần, lại gọi: Bát vạn tứ thiên do tuần.
         Cuộc đời của Tiên ở cảnh Phi phi tưởng rất dài, chẳng biết là bao năm mà kể, người ta tạm gọi là Bát vạn tứ thiên tuế.
Bát vạn tứ thiên đồng nghiã với vô lượng nên gọi tắt là Bát vạn.
BÁT VẠN TỨ THIÊN BỆNH : 84.000 thứ bệnh tật. 
        Tức là : Bát vạn tứ thiên phiền não, Bát vạn tứ thiên trần lao, Bát vạn tứ thiên tâm hành.
        Con người ta có vô số bệnh tật, lầm lạc, mê muội, từ trong tâm khởi lên hằng giờ, hằng phút. Muốn đối trị 84.000 thứ bệnh tật ấy thì nên dùng 84.000 pháp môn của Phật.
 Để đối trị với 84.000 phiền não, đức Thế Tôn đã thuyết dẫn ra 84.000 pháp môn tu trì, tùy căn cơ của người tín nhận. Sở dĩ có con số 84.000 là vì dựa trên 250 giới cấm của người Tỳ Kheo, trong 4 oai nghi đi đứng nằm ngồi, qua 3 thời Quá khứ Hiện tại Vị Lai, với 4 món Độn Sử (tham, sân, si, mạn), tác động qua lời nói và hành động, gây tạo ra 7 tội (sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác). Tổng cộng tất cả là 84.000 phiền não (250 x 4 x 3 x 4 x 7 = 84.000). 

4. DANH GỌI CỦA PHÁP MÔN TU TẬP
 Thực tế, trong Kinh Phật không nêu bất kỳ pháp môn tu tập cụ thể nào cả. Pháp môn sở dĩ có là vì phương tiện danh xưng. Phật chỉ chỉ bày cho đệ tử của Người các pháp để theo đó mà thành tựu quả giải thoát.
 Nếu nói về pháp môn tu tập thì ở trong Kinh CÓ PHÁP MÔN NÀO (là bài Kinh Nguyên thủy rất hệ trọng đối với người tu), Chánh văn có đoạn ghi: 
 “.... Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo.
  Có Pháp Môn nào, do pháp môn ấy, Tỳ kheo, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (àkàrapari-takkà), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận (dithini shànakhanti), có thể xác chứng Chánh trí; vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, phạm hành đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa"...”.
 Qua đoạn Kinh trên, chúng ta thấy Phật không đặt danh cho bất kỳ pháp môn tu tập nào cả. Nói có một pháp môn là nói pháp tu đó tương ưng đối với mỗi người tu, được xác chứng bằng Chánh trí và thành tựu Liễu sanh thoát tử, thì đó là pháp môn tu tập thù thắng của hành giả ấy ("Sanh đã tận, phạm hành đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa" ). 
 Có nhiều hành giả đã cho rằng trong Phật pháp chỉ có pháp môn duy nhất là “Tứ niệm xứ” là đưa đến sự giác ngộ và giải thoát rốt ráo. Về điều này chúng ta hãy nghe Tỳ khưu Brahmavamso (Đại đệ tử của Thiền sư Ajahn Chah) chia sẻ :
 “ Các vị thiền sư Phật Giáo đã nói rất nhiều về cách hành trì Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipattana), ngoại trừ người tu sĩ nầy. Cho nên, trong bài pháp ngắn hôm nay, tôi cũng xin theo xu hướng đó để trình bày một vài điều quan sát thực tế về pháp hành thiền nầy, vốn là một pháp giảng của Ðức Phật mà có lẽ đã có nhiều ngộ nhận trong hàng thiền sinh Phật Tử.
 Các bạn nào đã từng tham gia sinh hoạt tại các trung tâm Phật Giáo thì chắc đã nghe nhiều vị thầy tuyên bố rằng Pháp Tứ Niệm Xứ là “ MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ” để tiến đến Giác Ngộ. Mặc dù lời tuyên bố nầy có vẻ khẳng định và hấp dẫn, nhưng thật ra, đó không phải là lời phiên dịch chính xác của kinh điển Nguyên thủy và cũng không nhất quán với những lời Phật dạy trong các bài kinh khác. Cụm từ Pali "Ekayana Magga" trong bài kinh số 10 (kinh Tứ Niệm Xứ) trong Trung Bộ thường được dịch là "Con đường duy nhất" cũng được dùng trong bài kinh số 12 (đại kinh Sư Tử Hống) và có ý nghĩa rõ ràng là “ MỘT CON ĐƯỜNG VỚI MỤC ĐÍCH DUY NHẤT ”. Có nhiều con đường khác nhau nhưng cùng chung một mục đích, nhưng tất cả đều phải nương tựa vào nền tảng của Bát - Chánh đạo để huân tu ” ...
 Cái mục đích duy nhất đó không chi ngoài việc làm cho tâm trở nên thanh tịnh. Vậy thì đối với bất kỳ phép tu nào, ứng với mỗi loại đối tượng nào có duyên tu tập mà thành tựu “ TÂM THANH TỊNH ” thì được hiểu là : Đó là con đường duy nhất đối với họ đi đến giải thoát ! 

5. LỜI CUỐI
 Qua tìm hiểu và phân tích trên chúng ta thấy cuối cùng Pháp môn chỉ là danh gọi. Các pháp của Thế Tôn nói ra nhiều như thế là do ứng với nhiều căn cơ, nhiều hoàn cảnh,... để làm phương tiện mà đi vào. Tất cả đều hướng đến một mục tiêu chung là Liễu sanh thoát tử.
 PHÁP MÔN cuối cùng cũng chỉ là PHÁP TU giúp cho hành giả nương theo đây mà tu tập, cũng nương theo đó mà thành tựu. Điều cần quan tâm là dùng Chánh trí để đi vào, khi thực hành lấy Bát - Chánh đạo làm kim chỉ nam để không bị sai lệch. Có nên chăng cần cố công sức để nhận chân, để phân biệt đúng sai , có hay không có cái danh xưng này ? Thay vì hãy tìm một pháp tu nào phù hợp với căn cơ, với hoàn cảnh của mình rồi dồn hết thời gian, công sức và trí lực  để thành toàn pháp tu đó sao cho nó được viên mãn ! Vì thực tế, những điều Đức Thế Tôn truyền dạy cho đệ tử của Người chỉ là những điều cơ bản nhất, thiết yếu nhất để giúp cho mọi người dần dần nhập vào quả Thánh, nó vô cùng nhỏ nhiệm so với Trí hiểu biết không cùng tận của Người. Như vậy việc hậu bối chúng ta cứ loay hoay đo ngắn đo dài, cứ cố phân định xem cái nào sâu cái nào cạn, hay pháp này là chính pháp kia là phụ, thật là không nên vậy. Giống như một kẻ nghèo khó có ít của cứ ngồi miết ở trong nhà đóng tất cả các cửa lại ngồi đếm xem cái của này có bao nhiêu món, nó từ đâu ra, cái nào quý cái nào không... Thay vì bước ra khỏi nhà,  dùng số vốn ít ỏi này để sinh lợi, làm cho nó càng thêm nhiều, càng thêm phong phú để một ngày nào đó trở thành người giàu có, như vậy mới là người khôn ngoan .
 Chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện sau đây:
 “ Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapà. Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỷ kheo:
 - Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tray hay lá trong rừng Simsapà ?
 - Thật quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá Simsapà mà Thế Tôn nắm lấy trong tay và thật là quá nhiều, lá trong rừng Simsapà.
 Cũng vậy, này các Tỷ kheo, thật là quá nhiều, những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các ông ! Thật là quá ít những gì Ta nói ra.” 
 (ĐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 12, phẩm Rừng Simsapà, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.635)
 Qua lời dạy của Phật, thế mới biết trí tuệ của bậc Toàn giác thật bao la, vĩ đại biết dường nào. Những điều Thế Tôn dạy cho con người thật quá ít so với những điều mà Ngài biết, ít đến nỗi như nắm lá trong bàn tay so với lá trong rừng.
 Nắm lá Simsapà trong bàn tay chỉ là “những điều liên hệ đến mục đích giải thoát, là căn bản cho Phạm hạnh, đưa đến ly tham, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn”. Đó là những gì căn bản và cần thiết nhất nhằm giúp cho con người vượt thoát khổ đau để sống an lạc, hạnh phúc. Vì quỹ thời gian cho một đời người vô cùng ngắn ngủi, do đó CÀNG KHÔNG THỂ PHÍ PHẠM, VIỂN VÔNG TRONG THẾ GIỚI CỦA LUẬN LÝ, SIÊU HÌNH KHÔNG CÓ LỢI ÍCH CHO GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT .

 Như một người bị trúng mũi tên có độc, việc cấp bách và cần thiết nhất là nhổ mũi tên độc ấy ra và trị liệu vết thương. Sẽ mất mạng, nếu người ấy không cho nhổ tên mà cứ vòng vo muốn tìm hiểu xem mũi tên này do ai bắn ra, nó được làm bằng cách nào.... Những điều Thế Tôn dạy như nắm lá trong bàn tay tuy ít nhưng nó là chìa khóa để mở cửa kho tàng tuệ giác của lá cây trong rừng. Chỉ cần khảo sát tường tận một phần nắm lá ấy thì tự khắc chúng ta sẽ hiểu được bản chất của toàn bộ lá cây trong rừng giác ngộ của Thế Tôn./.
 NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 

(Bài viết này chỉ là thiển ý của cá nhân, không đại diện cho bất kỳ ai. Mong Quý đạo hữu góp ý cho vấn đề trên được thêm sáng tỏ).
#Tham_Khảo
Credit: Fb/hoangduong

Đăng nhận xét

0 Nhận xét